Nhàng nhàng mỗi năm, ngành logistics đóng góp khoảng 20% GDP cho kinh tế giang san. Nguồn: internet Đã có những đóng góp ban sơ, nhưng chưa cân xứng với tiềm năng Logistics có đóng góp quan trọng vào quá trình phân phối hàng hóa từ nơi sinh sản đến người tiêu dùng và là cầu nối thương nghiệp toàn cầu. Hoạt động logistics ngày nay không chỉ gắn liền với hoạt động kho vận, giao nhận tải, mà còn lên kế hoạch, xếp đặt dòng chảy nguyên, nguyên liệu từ nhà cung ứng đến nhà sinh sản, sau đó luân chuyển hàng hóa từ khâu sinh sản đến người tiêu dùng rốt cuộc, tạo nên sự liên thông trong toàn xã hội theo những phương án tối ưu hóa, giảm uổng luân chuyển và lưu kho. Tại "Diễn đàn Logistics Việt Nam lần thứ nhất” năm 2013 do Bộ công thương nghiệp kết hợp với Bộ Giao thông vận tải tổ chức vào ngày 15/11/2013, ông Đỗ Xuân Quang, Chủ tịch Hiệp hội Các doanh nghiệp (DN) dịch vụ logistics Việt Nam cho biết, hiện thời trên cả nước có hơn 1.200 DN logistics, tăng 20% so với năm 2010, tương đương với các nước Thái Lan, Singapore và Indonesia. Trong số các công ty nội địa có khoảng 800 công ty đang hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận chuyển và 70% là DN tư nhân. Ngoài ra, các DN logistics nội địa đã tiến hành đầu tư chiều sâu, triển khai các dịch vụ logistics trọn gói 3PL (intergrated logistics), tham dự hồ hết vào các công đoạn logistics trong chuỗi cung ứng của chủ hàng. Từ đó, tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho ngành dịch vụ và xác lập được uy tín của các đối tác, khách hàng trong và ngoài nước. Năm 2012, theo đánh giá của ngân hàng Thế giới (WB), Chỉ số năng lực logistics quốc gia (LPI) của Việt Nam đứng thứ 53 trên 155 nước khảo sát và đứng thứ 5 khu vực ASEAN. Đây thực thụ là thành tích đáng tự hào của ngành dịch vụ này của Việt Nam. Sở dĩ có được những kết quả như trên là bởi, ngành logistics của nước ta có nhiều tiềm năng và thế mạnh. Theo ông Lê Xuân Sang, Phó Ban Chính sách kinh tế vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, ngành logistics Việt Nam có rất nhiều lợi thế về địa lý và điều kiện thiên nhiên. Với 3.260 km đường bờ biển, 4.639 km đường biên giới nằm trong vùng chiến lược của Đông Nam Á sẽ là những lợi thế thiên nhiên dành cho cho các DN logistics Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam có nhiều cảng nước sâu, 6 trọng tâm logistics tại 3 miền của đất nước, như: Cái Lân - VOSA (Quảng Ninh), Đình Vũ (Hải Phòng), Cát Lái (TP. Hồ Chí Minh), Cái Mép - Thị Vải (Vũng Tàu), trung tâm Tiếp vận Gemadept Sóng Thần, trung tâm Kho vận đa năng DAMCO (Bình Dương). Bên cạnh đó, logistics của Việt Nam đang trong thời kỳ đầu của quá trình phát triển, chính nên chi, đây cũng là điều kiện thuận tiện để các DN logistics Việt Nam thực hiện ngay từ đầu việc vận dụng các công nghệ mới, các quy trình tiền tiến trên thế giới. Còn theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất - du nhập, Bộ Công Thương, sự tăng trưởng của ngành xuất - nhập cảng cũng tạo ra những tiềm năng to lớn cho ngành logistics phát triển.Làm báo cáo tài chính Năm 2013, có tới 90% hàng xuất - du nhập của Việt Nam được chuyên chở bằng đường biển với khoảng 500-600 triệu tấn/năm và dự kiến sẽ đạt 1.100 triệu tấn vào năm 2020. Bên cạnh đó, lượng hàng container qua cảng biển Việt Nam đạt từ 4,2 - 5 triệu TEU (khoảng 39 m³ thể tích), dự kiến đến năm 2020 con số này lên đến 7,7 triệu TEU. Hơn nữa, việc Việt Nam tham gia vào các hiệp định thương nghiệp tự do (FTA) song phương và đa phương cũng đã tạo ra nhiều tiềm năng to lớn và tăng vị thế của ngành logistics trong khu vực và trên thế giới. Một số hạn chế và căn do Bên cạnh những kết quả như trên, ngành logistics của nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Cụ thể như: Một là,nhiều cơ quan chức năng, các nhà quản lý, cũng như các DN chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của ngành. Nhìn chung, khi nói đến đối tượng dùng dịch vụ logistics (các công ty thương nghiệp, các DN xuất - nhập khẩu, các DN chế biến sản xuất), các cơ quan quản lý cũng như các DN chưa đánh giá hết được tầm quan trọng của việc quản trị logisticss và chuỗi cung ứng, đặc biệt là các công đoạn còn lại từ cảng trong nước đến tay người tiêu dùng chung cuộc. Kết quả là logistics thường được đồng nhất với việc tải đơn giản và việc thuê ngoài logistics vẫn chưa trở nên lề thói, chưa kể đến việc vận dụng logistics trong quản trị sinh sản, chế biến… đã làm uổng, giá thành sản phẩm hàng hóa cao, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hai là,khung khổ luật pháp điều chỉnh các hoạt động logistics hiện giờ đã không còn phù hợp, thiếu cập nhật các định chế cần thiết trong lĩnh vực logistics quốc tế. Nên chi, thị trường dịch vụ logistics vẫn còn thiếu tính minh bạch, cạnh tranh chưa lành mạnh, chưa tạo điều kiện phát triển vững bền cho ngành. Nguyên do của thực trạng trên một phần đông là do còn thiếu đầu mối quản lý hợp nhất ngành dịch vụ logisticss và chậm thiết chế hóa, cập nhập hóa các thiết chế chính sách phù hợp xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói riêng, cũng như nền kinh tế thế giới nói chung. Ba là,cơ sở vật chất hạ tầng còn chậm phát triển cũng là một hạn chế lớn đối với sự phát triển của logistics. Bây giờ, cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ ngành dịch vụ logistics của Việt Nam bao gồm: 26 sân bay, trong đó 8 phi trường có đường băng dài 3.000m có khả năng đón nhận các phi cơ lớn, 3.200km đường sắt quốc gia, khoảng 17.300km quốc lộ, 49 bến cảng với 217 cầu cảng. Tuy nhiên, hệ thống trên vẫn chưa thể đáp ứng và theo kịp sự phát triển của ngành logistics trong tuổi bây giờ. Nhưng vấn đề không phải nằm ở số lượng, mà là tính đồng bộ trong quy hoạch, phối – phối hợp giữa kết cấu hạ tầng vận tải với chân hàng, đồng bộ trong các khâu của bản thân ngành logistics. Bốn là,hoạt động của chính các DN logistics còn nhiều hạn chế, cả về: quy mô hoạt động, vốn, nguồn nhân lực… Cũng tại Diễn đàn Logistics Việt Nam lần thứ nhất năm 2013, theo ông Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công Thương, phần lớn quy mô các DN logistics là nhỏ và vừa, vốn điều lệ bình quân hiện nay chỉ khoảng 4-6 tỷ đồng. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực hiện tại chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu của ngành, nguồn nhân lực được đào tạo bài bản chuyên ngành logistics chỉ chiếm 5%-7%. Hơn nữa, lực lượng lao động logistics được đào tạo chủ yếu phê duyệt các lớp ngắn hạn, hoặc ở trình độ trung cấp. Số cần lao được đào tạo chính yếu nằm trong các lĩnh vực dịch vụ, như: nhà băng, du lịch, thông tin giao thông, còn dịch vụ cảng biển, logistic, lại khôn xiết khiêm tốn, hàng ngũ các nhà quản lý hầu như không có. Năm là,thiếu sự kết nối giữa DN xuất khẩu và DN logistics. Bây giờ, nhiều DN xuất - du nhập Việt Nam vẫn còn tập quán “mua CIF, bán FOB” (tức thị, với giá dựa trên việc giao hàng theo giá thành, bảo hiểm, cước vận chuyển, thì bổn phận sẽ chuyển từ người bán sang người mua khi hàng nhập cảng đến. Còn với giá dựa trên việc giao hàng theo dụng cụ vận chuyển, trách nhiệm này chuyển ngay tại cảng nước ngoài). Thành ra, nhiều DN xuất khẩu, thậm chí, giao phó cho đối tác nước ngoài quyền chủ động thuê chuyển vận (logistics). Hơn nữa, rất nhiều DN xuất - du nhập của Việt Nam bản tính chỉ làm hàng gia công cho nước ngoài. Do vậy, quyền nhập vật liệu và xuất thành phẩm thuộc về đơn vị đặt hàng gia công, tức bên nước ngoài. Công ty dịch vụ kế toán Để ngành logistics “cất cánh” Để phát triển và năng cao năng lực cạnh tranh cho ngành logistics ở nước ta hiện giờ, cần phải có sự chuyển biến đồng bộ và sự ráng từ nhiều phía, thành ra, theo chúng tôi, cần thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất,cần có chiến lược phát triển cũng như các chính sách hỗ trợ cho ngành logistics, như: Cần có chiến lược phát triển đội tàu, nâng dần năng lực và thị phần các DN chuyên chở biển Việt Nam; Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam có đủ năng lực, chuyên nghiệp và màng lưới đáp ứng nhu cầu của các chủ hàng Việt Nam; Phát triển năng lực các DN bảo hiểm Việt Nam; Các chính sách tín dụng nhà băng phục vụ cho nhà xuất - du nhập. Thứ hai,hoàn thiện khung pháp lý logistics minh bạch, phù hợp xu thế phát triển logistics hiện giờ, tạo thuận tiện thương mại và xúc tiến phát triển ngành dịch vụ logistics Việt Nam. Bên cạnh đó, cần canh tân thủ tục hải quan, thực hành một cửa quốc gia, điện tử hóa khai quan, vận dụng thương mại điện tử, cải cách thủ tục hành chính… nhằm tạo điều kiện cho DN xuất - nhập cảng và DN dịch vụ logistics cắt giảm tổn phí, nâng cao lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh đó, cần thành lập Ủy ban nhà nước về Logistics là cơ quan chịu trách nhiệm, là manh mối thực thi các chương trình, đích chung của ngành, tham dự tư vấn quy hoạch và chiến lược tổng thể phát triển logistics của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Thứ ba,đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng đồng bộ, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày một lớn của ngành logistics. Theo đó, cần sớm hoàn thiện cảng, cảng thông quan nội địa, đường bộ, kho bãi, trang thiết bị và các định chế có hệ trọng. Bây giờ, Chính phủ Việt Nam đang xúc tiến mạnh mẽ hình thức đối tác công - tư (PPP) trong phát triển kết cấu hạ tầng. Do đó, Chính phủ và tư nhân cần có sự tăng cường hợp tác để đầu tư phát triển hạ tầng logistics bằng việc chia sẻ nhưng khó khăn vào kết nối những thế mạnh của mỗi bên. Thứ tư,Hiệp hội các DN dịch vụ logistics Việt Nam với vai trò chủ chốt cần kết nối các DN trong ngành, tạo ra các DN đầu đàn, hiệp tác san sớt các lợi thế nhằm giảm hoài logistics, tạo ra sân chơi lành mạnh và mang tính cạnh tranh cao trong ngành logistics… nhằm gắn kết DN xuất - nhập khẩu và DN dịch vụ logistics. Dịch vụ quyết toán thuế cuối năm Thứ năm,đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho ngành logistics. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics Việt Nam năm 2012, trong thời đoạn 2013-2015, Trung bình các DN dịch vụ logistics cần thêm 18.000 lao động, các DN sinh sản, thương mại, dịch vụ cần trên một triệu nhân sự có chuyên môn về logistics (Đỗ Loan, 2014). Vì vậy, để có thể đáp ứng nhu cầu nguồn nhân công nói trên, cần có sự phối hợp chém giữa các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, các trường đào tạo, các DN logistics, các trọng điểm xúc tiến đầu tư, Hiệp hội các DN dịch vụ logistics… trong việc nâng cao tri thức về phá hoang dịch vụ logistic, như: tổ chức các cuộc hội thảo, bản tin chuyên đề, phổ thông pháp luật, cập nhật những kiến thức vận hành, khai hoang và quản lý loại hình dịch vụ này. Các trường đại học cần xây dựng chương trình đào tạo về dịch vụ logistics, đưa vào nội dung đào tạo một số ngành liên lạc chuyển vận hoặc mở đào tạo chuyên ngành dịch vụ logistics với nhiều loại hình đào tạo, nhiều cấp độ đào tạo, căn cứ vào nhu cầu thực tại của từng thời đoạn. Thứ sáu,các DN dịch vụ logistics Việt Nam cần chủ động làm việc với DN xuất - du nhập Việt Nam, tham mưu và thuyết phục các DN này đổi thay phương thức “mua CIF, bán FOB”. Bên cạnh đó, các DN dịch vụ logistics cũng cần nâng cao năng lực xây dựng màng lưới ở nước ngoài và tính chuyên nghiệp để phục vụ khách hàng có chất lượng và uy tín. Bản thân các DN logistics phải quảng bá hoạt động của mình và cùng DN xuất - du nhập cam kết đồng hành trong việc sử dụng và cung cấp dịch vụ logistics. Thứ bảy,các DN xuất - du nhập cũng cần nhận thức các ích trong việc đổi thay tập quán mua, bán truyền thống, chú ý thương thuyết để giành quyền tải và logistics cũng như bảo hiểm để vừa kiệm ước và chủ động trong chi phí, vừa tạo ra thế cạnh tranh giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng của mình./. Tài liệu tham khảo 1. Bộ công thương nghiệp, Bộ liên lạc vận tải (2013). Kỷ yếu Diễn đàn Logistics Việt Nam lần thứ nhất năm 2013, ngày 15/11/2013, TP. Hồ Chí Minh 2. Đỗ Loan (2014). Logisticss Việt Nam khan hiếm nguồn nhân lực, truy cập từ Http://giaothongvantai.Com.Vn/thi-truong/lao-dong-viec-lam/201403/logisticss-viet-nam-khan-hiem-nguon-nhan-luc-463416/ Theo kinhtevadubao.Com.Vn |